Thứ Năm, 17 tháng 1, 2013




Dân chủ không thể đồng hành cùng Điều 4 Hiến pháp

Nhà báo Trần Định
Nguyên PV,BTVchính VNP-TTXVN
Nghệ sĩ nhiếp ảnh

Sự biến mất dần của dân chủ trong xã hội Việt nam hiện nay là một điều hiển hiện , gây nên bao nỗi phẫn nộ của mọi tầng lớp nhân dân. Để thanh minh , chính quyền thường nói đó là do sai lầm của cấp dưới ,cấp cơ sở, hướng sự phẫn nộ của quần chúng nhắm vào các đối tượng thực thi trực tiếp , như các chiến sĩ Công an, Dân phòng…Và chiến thuật đó đã thành công phần nào, khi mọi dư luận, bình luận của “lề đảng”, “lề dân” đều lên án chỉ trích thậm tệ các đối tượng thực thi, tuy họ không vô tội, nhưng thực ra thì cũng rất tội nghiệp. Họ cũng như chúng ta đều đã vô tình nhận vai của một cuộc đánh tráo vĩ đại . Chúng ta ,bạn cũng như tôi, đã gần như bị thôi miên đến mức không bao giờ tự hỏi ,đâu là cội nguồn của sự biến mất dân chủ ở nước ta.
Trên Tạp chí Tia sáng mới đây vừa công bố một bài báo lạ: “Hành trình Hiến pháp Việt nam dưới góc nhìn khoa học” bằng việc chỉ ra những nhân tố được nhào nặn, những chân lý được đánh tráo và những phân tích khoa học hết sức thuyết phục, đã chỉ ra cội nguồn của sự biến mất dân chủ ở nước ta. Có lẽ vì tính khách quan, trung lập của khoa học nên  một bài viết về một vấn đề nhạy cảm đăng trên báo chí chính thống ,vừa công bố mà lại có được sự hưởng ứng, đồng tình của dư luận cả hai “lề “như vậy. Chẳng hạn như  trong bài viết  SỰ BIẾN ĐỔI CỦA NỘI DUNG "DÂN CHỦ" TRONG HÀNH TRÌNH HIẾN PHÁP, Bloger Mạnh Kiên đã nhận xét:
 “..tác giả Trần Xuân Hoài đã làm rõ “vật liệu” cơ bản được xây dựng trong hiến pháp thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều bắt đầu là những khái niệm đã được thừa nhận mặc nhiên trong xã hội như: nhà nước do dân làm chủ, con người được tự do, được bình đẳng về quyền lợi, được mưu cầu hạnh phúc… Các giá trị cốt lõi này đã tạo nên sự bền vững của hiến pháp như các tiên đề Euclid giúp cho các quốc gia không tốn tiền “cải cách” giáo trình môn hình học cơ sở trong suốt hơn 2.000 năm qua.” Trong khi HP 1946 được xây dựng trên những tiên đề xã hội, là những lẽ phải không thể chối cãi,được thể hiện trong Tuyên ngôn độc lập Mỹ (1763) và Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền Pháp (1789) như Chủ tịch Hồ chí Minh đã khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập 1945, thì Hiến pháp 1980 đã hoàn toàn chối bỏ, khi khẳng định nhà nước CHXH CN VN là nhà nước chuyên chính (Dictaturship-độc tài),đối ngược với dân chủ. Ở đây chúng ta cũng thấy được thủ thuật đánh tráo ngôn từ trong tuyên truyền ngu dân là như thế nào. GSTSKH Trần xuân Hoài đã viết“Nên nhớ rằng,  “chuyên chính” là xuất xứ từ nguyên gốc Latin “Dictatura” ,trong mọi ngôn ngữ thông dụng đều có duy nhất một nghĩa  là “Độc tài” đối nghịch với “Dân chủ -Democracy”  ,rất phản cảm trong xã hội văn minh [7] .Vì là từ mượn , trong tiếng Việt, nhờ sử dụng thủ thuật “từ đồng nghĩa- Synonyms” cùng gốc Hán- Việt nên chữ “Chuyên chính” đã được dùng thay cho chữ “Độc tài” ,và do vậy không gây phản cảm trong xã hội Việtnam.”. Quả thật là ngay cả những thể chế độc tài chính hiệu như Đức quốc xã, Franko, Pol Pot ..cũng không dám công khai thừa nhận ta đây là chuyên chính /độc tài như vậy. Ngay như Hiến pháp Liên xô cũ (1977), nơi sản sinh ra Chuyên chính vô sản ,cũng không định danh nhà nước là chuyên chính vô sản như chúng ta ! Thật là hiếm có. Hiến pháp 1992 cố tránh sự ngạo mạn đó nhưng không muốn quay về dân chủ ,lại tạo nên một sự định danh ngớ ngẩn khác “Hiến pháp 1992 một lần nữa định danh lại: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước(gì?) của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân...” . Cần nhớ rằng mệnh đề này là trích trong diễn văn Gettysburg (1863) của Tổng thống Mỹ  Abraham Lincoln, dùng để định danh một chính quyền, nguyên văn:”… - government of the people, by the people, for the people -Chính quyền của dân, do dân và vì dân” [8]. Không phải là vô tình mà A.Lincoln định danh đó cho chính quyền chứ không phải cho nhà nước. Vì nếu là nhà nước (quốc gia) thì định danh như vậy thật vô nghĩa. “ Tác giả lề dân Mạnh Kiên đã bình luận điều này theo quan điểm của mình cũng rất thuyết phục : “..tác giả của mệnh đề này là Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln đã chọn từ rất chắc chắn khi trao trọng trách cho “chính quyền” (goverment) dưới sự kiểm soát của dân, hoạt động vì dân và do dân làm chủ chứ không dùng từ nhà nước – quốc gia (nation - state). Bởi tiên đề “nhà nước là của nhân dân” cũng đã được nghiễm nhiên thừa nhận như 2+2 = 4 vậy. Do một sự nhầm lẫn nào đó trong chính giới đã tạo nên thói quen ngôn ngữ trong dân gian khiến nghĩa vụ “do dân, vì dân” của chính quyền đã được gán sang cho khái niệm siêu hình là nhà nước, một đơn vị ngôn từ đồng nghĩa số đông quần chúng. Theo logic này, nhà nước do dân vì dân cũng không khác gì, nhân dân tự làm, tự chăm sóc, tự chịu trách nhiệm với nhau .Có lẽ, nhận thấy sơ suất này nên năm 2001, Hiến pháp đã định danh lại với nhiều thông tin hơn, nhưng từ “dân chủ” lại vắng bóng: “…Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân.”
Nhà nước pháp quyền XHCN là gì, một lần nữa lại mập mờ , dân chủ hay chuyên chính đây?
Còn đây là Hành trình dân chủ của Việt nam gần 70 năm qua, thể hiện qua sự định danh nhà nước : Dân chủ cộng hòa (46) à Dân chủ nhân dân (60) à Chuyên chính vô sản (80) à    Bỏ trống (92)à Pháp quyền XHCN (2001)à
Nhìn hành trình này chúng ta thấy rõ ,sau khi từ bỏ Dân chủ chuyển sang Chuyên chính/Độc tài từ năm 1980 một cách công khai, thì sau đó, dù cố che dấu nhưng thực chất từ chối dân chủ là tư tưởng chủ đạo, khiến cho việc định danh một quốc gia trở nên lung túng, nực cười. Nhìn trên biểu đồ tiến hóa (evolution) của dân chủ, ta không khỏi giật mình  khi thấy sự từ bỏ dân chủ chuyển sang chuyên chính giống như sự tuyệt chủng của loài khủng long ! Thú thật, tôi hết sức bất ngờ khi được biết điều này và phải vò đầu tự hỏi , tại sao mình làm báo mấy chục năm, chữ nghĩa không thiếu, mà điều rõ ràng như vậy không nhận ra. Đây có thể xem là “hiệu quả của phép thôi miên chính trị” mà chúng ta đã bị tác động mấy chục năm qua. Thoạt đầu tôi nghĩ không lẽ trình độ của những nguời soạn thảo lại kém cõi , nhận thức lại ấu trĩ như vậy ! Nhưng nếu chịu suy nghĩ thì hoàn toàn không phải do trình độ non kém ..   Việc thể hiện trên Hành trình Hiến pháp về sự từ chối dân chủ không phải chỉ trên ngôn từ mà đã được thực thi một cách quyêt liệt trong xã hội . Mặc dù GS. Trần xuân Hoài trong bài khảo cứu của khoa học của mình không đưa ra kết luận nào, nhưng bây giờ thì bất cứ người dân nào cũng đều không ngần ngại khi khẳng định rằng việc từ bỏ dân chủ trong tổ chức quản lý xã hội thời gian qua là hoàn toàn bắt nguồn từ  từ thể chế. Hơn thế nữa, Chúng ta có thể thấy rõ rằng, điều 4 hiến pháp chỉ được sinh ra và áp đặt vào Hiến pháp tại cùng thời điểm với sự từ bỏ sự định danh dân chủ cho nhà nước Việt nam tại Hiến pháp 1980 . Đây hoàn toàn không phải là điều ngẫu nhiên. Điều 4 Hiến pháp với thể chế chuyên chính gắn kết hữu cơ với nhau ,không thể tách rời. Quả vậy ,nếu điều trước (điều 1,2) khẳng định Dân chủ là cơ sở của nhà nước thì việc chọn ai là lãnh đạo,điều hành phải do nhân dân chọn , cũng theo phương thức dân chủ. Thế thì điều sau (tức điều 4) không thể chống lại điều trước , mà cụ thể là bắt toàn dân phải chấp nhận một tổ chức nào ,một nhóm người nào đó là  lãnh đạo, dù đó là một Đảng đã có thành tích trong quá khứ , như trong Hiến pháp từ 1980 đến nay đã quy định trong điều 4. Rõ ràng Dân chủ và Điều 4 Hiến pháp là hai thứ không thể đồng hành với nhau. Đã chọn điều 4 thì phải bỏ dân chủ. Đã chọn dân chủ thì phải bỏ điều 4. Nhà nước chuyên chính /độc tài với Điều 4 Hiên pháp là hai anh em sinh đôi , do đó dù Hiên pháp 1992 sửa lại định danh để cho sự độc tài khỏi quá lộ liễu , đã dùng xảo thuật ngôn ngữ (thay chữ nhà nước vào chữ chính quyền trong mệnh đề nổi tiếng của A.Lincoln) dù có vô nghĩa nhưng né tránh được dân chủ. Ngay cả bản sửa lại vao năm 2001 , thì cũng trốn tránh dân chủ bằng cách đưa ra một khái niệm mù mờ là “Pháp quyền XHCN”. Cả nhân loại đều biết Pháp quyền là gì, nhưng gắn Pháp quyền với XHCN là một xảo thuật đánh tráo khái niêm , để cho bản chất chuyên chính/độc tài được che đậy, dân chủ bị từ chối một cách công khai.
Thể chế chuyên chính gắn liền hữu cơ với Điều 4 Hiến pháp thành một tổng thể. Không thế có Điều 4 Hiến pháp trong một thể chế dân chủ. Nếu muốn cả hai , ví dụ Nước Việt nam là một nước Dân chủ- Chuyên chính (Độc tài) thì bạn nghĩ có được không ?. Một bộ luật nguồn của nhà nước không thể chứa những mâu thuân nội tại không thể hóa giải được. Và một cái văn bản gọi là Hiến pháp như vậy, dù bằng mọi quyền lực áp đạt để được thông qua, không thể được thực thi và không bao giờ được thực thi. Làm sao có thể yêu cầu người dân sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật được!. Hậu quả về thực tế là đất nước sẽ vô pháp luật, dân tộc mãi mãi không thoát  cảnh lầm than, đói nghèo.
Chừng nào mà việc chọn lựa thể chế giữa dân chủ và độc tài (chuyên chính) chưa được đem ra cho nhân dân phúc quyết , thì mọi việc soạn thảo ,sữa chữa Hiến pháp là vô nghĩa là chống lại quy luật khoa học mà mọi xã hội văn minh đều phải tôn trọng. Nếu người dân coi mình là thành viên của nhà nước ,thì cần phải đòi hỏi trước hết là quyền được lựa chọn Dân chủ hay Chuyên chính cho đất nước. Trên cơ sở đó mới tiến hành thủ tục để soạn thảo Hiến pháp 2013. Hiện nay, chính quyền này đang làm ngược lại điều đó. Nhà báo lão thành Nguyễn Thanh Hà , bậc đàn anh và cũng là đồng nghiệp của chúng tôi tại VNTTX trước đây đã có một kiến nghị hết sức thấu tình đạt lý:

Với toàn thể nhân dân chúng ta, đây không phải chỉ là một kiến nghi, đây là một đòi hỏi , phải để cho toàn dân quyền lựa chọn thể chế ,là dân chủ hay chuyên chính. Sau khi có kết quả, mới tiến hành các thủ tục soạn thảo Hiến pháp mới.
Hành trình hiến pháp Việt Nam dưới góc nhìn khoa học 
01:51-1/11/2013


Trần xuân Hoài

 
Khảo sát các bản hiến pháp của Việt Nam có thể thấy rõ biểu hiện của yêu cầu ”Độc lâp”, “Tự do”, “Bình đẳng” tương đối ổn định. Riêng “Dân chủ” trong hành trình hiến pháp Việt Nam có sự biến đổi bất thường nhất. Trong các phiên bản ban đầu - 1946, 1960 - phạm trù này được nhấn mạnh nhiều, sau đó thì giảm mạnh.
1- Tiên đề của khoa học 

Khoa học là công cụ tư duy để con người lý giải và làm chủ tự nhiên cũng như xã hội. Mọi ngành khoa học đều được xây dựng từ những tiên đề (axioms), là những chân lý vạn năng tự thân không cần chứng minh[1]. Từ lớp 7 phổ thông ai cũng biết tiên đề Euclide về đường thẳng song song là nền tảng cho hình học cổ điển. Đó là loại tiên đề của tư duy toán học. Bảo toàn năng lượng và bảo toàn vật chất là những tiên đề nền tảng cho Vật lý. Tốc độ ánh sáng trong chân không là cực đại và hằng số trong mọi điều kiện là tiên đề cho thuyết tương đối Einstein. Những tiên đề đó là của thế giới tự nhiên. Xã hội con người cũng là một đối tượng của khoa học. Muốn xây dựng một tập hợp con người thành một hệ thống xã hội văn minh cũng cần có những tiên đề, tạm gọi là Tiên đề xã hội. Nói một cách dễ hiểu, đó là những lẽ phải không ai chối cãi được (Hồ Chí Minh)[2]. Từ các tiên đề xã hội sẽ xây dựng nên Hiến pháp, luật pháp, quy tắc của xã hội đó. Tiên đề xã hội được thể hiện trong các niềm tin tôn giáo hoặc các tuyên ngôn xã hội. Khác với tôn giáo cần cách diễn đạt càng mờ ảo thì càng lôi kéo được niềm tin, các tuyên ngôn xã hội là khoa học, nên rất rõ ràng, không thể đánh tráo. Không kể thời trung cổ thì cho đến nay có 3 tuyên ngôn xã hội phổ biến nhất mà các xã hội văn minh chọn các tiên đề ở đó làm cơ sở cho Hiến pháp:Tuyên ngôn độc lập Mỹ (1776), Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền Pháp (1791 ) và Tuyên ngôn Công sản (1848). 

2- Tiên đề xã hội cho các hiến pháp của Việt Nam

Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945[2] là bản tuyên ngôn xã hội chính thức duy nhất của nước Việt Nam cho đến nay. Điều rất đặc biệt là ngay những dòng đầu tiên bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam đó đã chọn những tiên đề xã hội của Tuyên ngôn độc lập Mỹ[3]: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc", và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyên Pháp[4]:”Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Tuyên ngôn độc lập Việt Nam đã khẳng định: Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. 

Hiến pháp Việt Nam đã có hành trình gần 70 năm, với ít nhất 4 phiên bản chính thức vào các năm 1946, 1960, 1980, 1992[5], và 1 dự thảo 2013[6], không kể các sửa đổi nhỏ 2001. Với các tiên đề xã hội như Tuyên ngôn Độc lập 1945 đã khẳng định, thì các quyền hiển nhiên như Độc lập, Tự do, Bình đẳng, Dân chủ là những điều khắc sâu trong lòng Việt Nam, tất phải thể hiện thành lời trong Hiến pháp Việt Nam vì Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao, với kỳ vọng là được bắt nguồn từ những lẽ phải không ai chối cãi được đó.

Người Đức có câu tục ngữ rất hay: Điều gì khắc ở trong tâm thì cũng bộc lộ nên lời. Theo triết lý đó của người Đức, chúng ta làm một thống kê nhỏ mà kết quả trình bày trong bảng dưới đây, cho ta thấy số lần xuất hiện và xác suất hiện diện của các phạm trù đó trong các văn bản Hiến pháp Việt Nam. Vì các văn bản có độ dài ngắn khác nhau, nên để định lượng cần phải tính xác suất hiện diện của chúng bằng cách tính tỷ lệ (phần nghìn) của số lần xuất hiện chia cho tổng số từ. Để dễ nhận biết, xác suất của sự hiện diện được trình bày rõ thêm bằng đồ thị kèm theo. 


Hiến pháp
Tổng số từ
“Độc lập”
“Tự do”
“Bình đẳng”
“Dân chủ”
Số từ
Xác suất (o/oo)
Số từ
Xác suất
(o/oo)
Số từ
Xác suất
 (o/oo)
Số từ
Xác suất
o/oo)
1946
3348
2
0. 59
10
1. 49
2
0. 59
13-8
1. 49
1960
8277
10
1. 2
8
0. 96
6
0. 72
79-48
3. 74
1980
14510
19
1. 3
15
1. 03
7
0. 48
12
0. 83
1992
13514
11
0. 81
10
0. 73
7
0. 52
7
0. 52
2013(Dt)
13866
14
1
14
1. 01
10
0. 72
11
0. 79



Nhìn biểu đồ thấy rõ sự biểu hiện của yêu cầu”Độc lâp” có biến đổi ít nhiều nhưng không một chiều, “Tự do” năm 1946 là rất cao sau đó ổn định suốt nhiều thập kỷ. “Bình đẳng” tương đối ổn định. Riêng “Dân chủ” trong hành trình hiến pháp Việt Nam có sự biến đổi bất thường nhất. Trong các phiên bản ban đầu, 1946, 1960 phạm trù này được nhấn mạnh nhiều, sau đó thì giảm mạnh. Lưu ý rằng trong các thống kê này, cụm từ dân chủ nằm trong tên gọi quốc gia “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, đã được đưa ra khỏi số liệu thống kê. Tuy chỉ là một phương pháp tư duy hình thức, gần giống như một trò chơi ngôn ngữ, nhưng số liệu thống kê giản đơn như vậy cũng gợi ý để tìm hiểu kỹ hơn, đặc biệt về nội hàm “Dân chủ” trong Hiến pháp. 

3- Sự định danh của một quốc gia và Hành trình dân chủ trong các Hiến pháp Việt Nam


•    Việt Nam, với tư cách là một quốc gia (nhà nước), được định danh trong các Hiến pháp như sau:

Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa (điều 1, Hiến pháp 1946)
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. . , là một nước dân chủ nhân dân (điều 2 Hiến pháp 1960)

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước chuyên chính vô sản. . . (Điều 2, HP 1980)

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước (gì?) của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. . . (điều 2, HP 1992) 

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân. . . (điều 2 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2000). 

•    Sự định danh lại vào Hiến pháp 1980 từ nhà nước dân chủ sang nhà nước chuyên chính, là một bước ngoặt lớn, có thể hiểu là Hiến pháp được xây dựng lại trên cơ sở những tiên đề xã hội khác trước. Có lẽ hiếm có quốc gia nào có được sự tự định danh chính thức là nhà nước chuyên chính như Hiến pháp 1980 của nước ta. Nên nhớ rằng, “chuyên chính” là xuất xứ từ nguyên gốc Latin “Dictatura”, trong mọi ngôn ngữ thông dụng đều có duy nhất một nghĩa là đối nghịch với “Dân chủ - Democracy”, rất phản cảm trong xã hội văn minh[7]. Vì là từ mượn, trong tiếng Việt, nhờ sử dụng thủ thuật “từ đồng nghĩa- Synonyms” cùng gốc Hán- Việt nên chữ “Chuyên chính” đã được dùng thay cho chữ “Độc tài”, và do vậy không gây phản cảm trong xã hội Việtnam. Trong giao tiếp, quảng cáo, tuyên truyền chính trị, những thủ thuật ngôn ngữ được dùng để dễ thuyết phục một cách nhất thời như vậy không phải là điều cấm kỵ, nhưng trong một văn bản luật cao nhất như Hiến pháp của một quốc gia mà định danh một quốc gia như vậy thì rất lạ. 

•    Hiến pháp 1992 một lần nữa định danh lại: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. . . ”. Cần nhớ rằng mệnh đề này là trích trong diễn văn Gettysburg (1863) của Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln, dùng để định danh một chính quyền, nguyên văn:”… - government of the people, by the people, for the people - Chính quyền của dân, do dân và vì dân”[8]. Không phải là vô tình mà A. Lincoln định danh đó cho chính quyền chứ không phải cho nhà nước. Vì nếu là nhà nước (quốc gia) thì định danh như vậy thật vô nghĩa. Coi Chính quyền đồng nghĩa là Nhà nước (quốc gia), là một sự cố tình nhầm lẫn tai hại trong chính giới và chuyển thành thói quen cả ở trong ngôn ngữ dân gian. Như vậy, thực chất Hiến pháp 1992 của Việt Nam không định danh nhà nước Việt Nam là nhà nước gì, không biết là dân chủ hay là chuyên chính hay là cái gì đó khác…!

•    Có lẽ nhận thấy sơ suất này nên năm 2001 đã sửa lại Việt Nam là “. . là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân. . . ”. Hiến pháp là văn bản pháp luật tối cao khởi thủy cho mọi văn bản pháp luật khác. Về khoa học, bất kỳ một định danh nào đều phải dẫn chiếu đến một khái niệm đã được định danh trước đó hoặc diễn dịch từ những “sự thật không thế chối cãi –tức tiên đề xã hội”. Vì vậy cần giải thích rõ “Nhà nước pháp quyền XHCN” là gì trước khi định danh cho một nhà nước. 

•    Qua sự định danh quốc gia trong Hiến pháp, ta có thể tóm tắt hành trình dân chủ theo con đường tiến hóa gần 70 năm như sau:

Dân chủ cộng hòa (46) --> Dân chủ nhân dân (60) --> Chuyên chính vô sản (80) --> không định danh (92) --> Pháp quyền XHCN (2001)…

Điều này lý giải cho biểu đồ về sự biểu hiện “Dân chủ" trong hiến pháp Việt Nam và hiển nhiên đã dẫn dắt sự thực thi trong xã hội chúng ta. 

4- Thay lời kết

Trước một đối tượng quan trọng như chọn cơ sở nào để xây dưng Hiến pháp, trong xã hội tất phải có nhiều quan điểm khác nhau. Dưới quan điểm chính trị, Hiến pháp phải xây dựng trên cơ sở đảm bảo quyền lực thống trị. Theo mục tiêu kinh tế, Hiến pháp phải được tạo ra theo lợi ích của việc điều khiển và thao túng đồng tiền. Lấy mục đích tuyên truyền làm chính, Hiến pháp sẽ được xây dựng bằng các thủ thuật ngôn ngữ. Điều thống nhất là tất cả các quan điểm khác nhau đều tự tuyên bố là vì quyền lợi của toàn dân. Tất nhiên thôi, vì về danh nghĩa, Hiến pháp là của toàn dân. Về nguyên tắc, Hiến pháp phải được toàn dân chấp nhận. 

Khi Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở những lẽ phải không thể chối cãi được, thì việc chấp thuận của toàn dân là một lẽ tự nhiên. Còn khi cơ sở là những lý lẽ dễ bị chối cãi, dù cho Hiến pháp đó bằng cách này hay cách khác tuyên bố được nhân dân chấp thuận, thì đó chỉ là sự áp đặt khiên cưỡng. Một Hiến pháp như vậy chỉ là hình thức, chỉ để tuyên truyền và tất nhiên không thể thực thi làm nền tảng cho sự phát triển hài hòa, bền vững và thịnh vượng cho quốc gia, dân tộc. 

Chắc là không có ai, ngoài vài ba nhà khoa học, lại ngây thơ tin rằng Hiến pháp của một quốc gia chỉ được xây dựng trên một cơ sở duy nhất, là cơ sở của những lẽ phải không thể chối cãi được. 

Nhà Vật lý vĩ đại Albert Einstein đã từng thổ lộ:. “Tôi không bao giờ ngại ngần và cũng chẳng bỏ lỡ một cơ hội nào để thẳng thắn nói lên niềm tin của mình, vì tôi coi đó là nghĩa vụ phải làm. Tuy nhiên, theo lẽ thường thì một tiếng nói đơn lẻ luôn luôn chìm trong tiếng ồn ào của số đông “

Chú thích

[1] axioms: a self-evident or universally recognized truth

[2] http://dangcongsan. vn/cpv/Modules/News/NewsDetail. aspx?co_id=30196&cn_id=119997

[3] “We hold these truths to be sacred and undeniable self evident, that all men are created equal and independent; that from that equal creation they derive in rights inherent and inalienable, among which are the preservation of life, and liberty and the pursuit of happiness”; http://www. princeton. edu/~tjpapers/declaration/declaration. html

[4] „Les hommes naissent et demeurent libres et égaux en droits. “ http://www. assemblee-nationale. fr/histoire/dudh/1789. asp

[5] http://vanban. chinhphu. vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&mode=view&org_group_id=0&type_group_id=1&category_id=0

[6] http://vietnamnet. vn/vn/chinh-tri/103390/du-thao-sua-doi-hien-phap-lay-y-kien-nhan-dan. html

[7] Tiếng Anh: Dictatorship, Pháp:Dictature, Nga:диктатура, Đức: Diktatur, Trung quốc: 独裁 (âm Hán Việt:độc tài)

[8] “. . . and that government of the people, by the people, for the people, shall not perish from the earth. ” http://showcase. netins. net/web/creative/lincoln/speeches/gettysburg. htm


Trần Xuân Hoài